Tin tức
Ẩm thực dưỡng sinh phòng bệnh trong mùa lạnh (24/11/2016)
“Ăn uống” là điều không thể thiếu được trong đời sống thường ngày, đó cũng là cách tốt nhất để phòng bệnh, giữ gìn sức khỏe. Về mùa đông, việc ăn uống lại càng cần phải được chú ý, bởi lẽ để giữ ấm trong điều kiện tiết trời lạnh giá thì hoạt động của các tạng phủ sẽ phải có những thay đổi cho phù hợp nhằm mục đích gia tăng nhiệt bên trong, giảm thiểu sự tỏa nhiệt ra ngoài. Vậy, nguyên tắc dưỡng sinh ăn uống mùa đông là gì?
Ăn các vị khác nhau để bổ thận
Đông y cho rằng, các vị khác nhau thì tác dụng cũng khác nhau. Vị chua có tác dụng thu liễm, có thể giảm bớt tiểu tiện, giữ mồ hôi, ngăn tiêu chảy. Mùa đông đi tiểu nhiều, ăn đồ chua vừa phải như ăn cam quýt, ô mai, sơn tra... có thể giảm bớt tiểu tiện. Mùa đông thận thủy làm chủ, thận thủy khắc tâm hỏa nên mùa đông tạng tâm dễ hư tổn, vì vậy, mùa đông cần ăn nhiều vị đắng để bổ tim. Ngoài ra, những chất dạng kiềm chứa trong thức ăn vị đắng có tác dụng tiêu viêm giải nhiệt, thúc đẩy tuần hoàn máu, làm giãn huyết quản. Lạnh còn có thể làm cho tính chất lý hóa của máu thay đổi, độ dính kết tăng, thời gian đông máu rút ngắn, dễ gây ra các bệnh huyết quản ở tim và não. Vì vậy, mùa đông ăn một lượng vừa phải các thực phẩm có vị đắng như vỏ quýt, hạnh nhân đắng, cà phê, trà, mướp đắng... có thể dự phòng được bệnh tim mạch và não bộ.
Vị ngọt có tác dụng bồi bổ, làm giảm và chữa co giật. Thực phẩm vị ngọt sau khi chuyển hóa qua gan có thể sản sinh rất nhiều nhiệt lượng, vậy nên, vào mùa đông giá lạnh, nên trọng dụng các đồ ăn thức uống có vị ngọt như các loại đường, mật ong, mứt, nước uống ngọt… để cung cấp nhiệt năng giúp cơ thể chống chọi với giá lạnh. Nhưng thực phẩm ngọt không nên ăn quá nhiều vì không những dễ gây béo phì mà còn gây trở ngại cho hoạt động của tỳ vị, làm mất cảm giác thèm ăn, thậm chí còn ảnh hưởng đến chức năng của tâm và thận. Căn cứ theo quan hệ của ngũ hành, ngũ vị và ngũ tạng, dưỡng sinh ăn uống mùa đông nên ăn nhiều vị cay để bổ thận, bởi vì cay bổ phế, phế lại sinh thận, phế mạnh thì thận cũng chắc chắn. Mặt khác, thực phẩm vị cay có tác dụng phát tán, hành khí, hoạt huyết... và thiên về tính nhiệt, như hành, gừng, tỏi, ớt... khi dùng vào mùa đông có thể trừ lạnh và tăng cường nhiệt lượng cho cơ thể. Hơn nữa, Đông y cho rằng, mặn vào thận, mùa đông ăn thực phẩm mặn với một lượng thích hợp có thể điều tiết chức năng của thận, làm hài hòa âm dương.
Mùa đông cũng nên ăn uống thanh đạm
Mùa đông là mùa tốt nhất cho ăn uống bổ dưỡng vì đây là lúc vạn vật tiềm tàng, âm tinh, dương khí của con người cũng có xu hướng tiềm tàng, lúc này nếu bồi bổ cho âm tinh, dương khí thì dễ hấp thu và giữ lại trong cơ thể, từ đó làm cho thể chất tăng cường, có tác dụng bồi bổ và củng cố sức khỏe cho cơ thể. Bồi bổ tốt nhất là sau đông chí.
Tuy nhiên, tẩm bổ nhưng cũng nên ăn thanh đạm là chính, hết sức tránh cao lương mỹ vị.
Y học hiện đại cho rằng, nếu ăn quá nhiều chất béo, chất ngọt sẽ làm tăng chất mỡ không tốt trong máu, đặc biệt là cholesterol làm phát sinh các mảng vữa xơ trong huyết quản, dễ gây tăng huyết áp, viêm tắc động mạch, là cơ sở để gây nên các chứng bệnh nguy hiểm như nhồi máu cơ tim, xơ gan, đột quỵ não, suy gan, suy thận với tỷ lệ tử vong và tàn phế rất cao.
Mùa đông ăn uống lạnh hại hay lợi?
Trong tiết trời đông giá lạnh, nếu có thể ăn được một ít cơm nguội, rau nguội hay uống một ít nước sôi để lạnh thì không những không có hại mà còn có ích cho sức khỏe. Mùa đông mọi người thường thích ăn những thứ nhiều dầu mỡ, nhiệt lượng cao, nhưng lại ít vận động nên dễ béo phì. Nếu ăn một chút rau mát lạnh sẽ làm cho cơ thể phải tự sưởi ấm, như thế có thể tiêu hao một lượng mỡ nhất định để đạt được mục đích giảm béo, bảo vệ sức khỏe. Nghiên cứu của các học giả người Nga chứng minh, uống nước lạnh có lợi rất nhiều cho cơ thể con người. Nếu thường xuyên uống nước lạnh có thể phòng được bệnh cảm cúm, viêm họng và một số bệnh ngoài da. Đặc biệt là buổi sáng sau khi thức dậy uống một cốc nước sôi để nguội có thể làm tăng cường khả năng giải độc của gan và bài tiết của thận, thúc đẩy quá trình trao đổi chất, tăng cường khả năng miễn dịch, có tác dụng hạ thấp huyết áp và phòng bệnh nhồi máu cơ tim.