Tin tức

Đoàn công tác y tế Việt Nam thăm và làm việc tại Đức. (30/09/2015)

30/09/2015 02:44 PM

Nhận lời mời của Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (giz), trong khuôn khổ hoạt động dự án tăng cường y tế tuyến tỉnh do Cộng hoà Liên bang Đức tài trợ, từ ngày 18-28/9/2015, Đoàn công tác y tế của Việt Nam do PGS.TS. Nguyễn Thị Xuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế làm trưởng đoàn đã tham quan và học tập, chia sẻ kinh nghiệm tại Đức về một số nội dung như ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo liên tục, bác sĩ gia đình và y tế từ xa.

 Cùng đi với đoàn có Lãnh đạo Cục Quản lý khám chữa bệnh, Bệnh viện Việt Đức, Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, Lãnh đạo Sở Y tế và Giám đốc 6 bệnh viện trong dự án thuộc hai tỉnh Thanh Hoá, Yên Bái.


Trong 5 ngày làm việc tại Đức Đoàn đã đi thăm và làm việc với Bộ Y tế và một số cơ quan liên quan: Tạp chí Y khoa Đức, Hội đồng Y khoa Tiểu bang Bắc Rhein, Trung tâm Y tế Tiểu đường Tây Đức thuộc tập đoàn bệnh viện Thiên chúa giáo DusselDorf, Hiệp hội Y tế từ xa, Công ty Tư vấn nghiên cứu và chuyển giao công nghệ y tế từ xa ZTG, Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ), Ngân hàng Tái thiết Đức (Kfw).Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên và đoàn công tác thăm và làm việc tại Bộ Y tế Đức 

Hệ thống Y tế và Bảo hiểm Xã hội

Tại buổi làm việc với Bộ Y tế Đức, đại diện của Bộ Y tế Đức đã giới thiệu tổng quan về hệ thống y tế Đức và hệ thống Bảo hiểm Y tế Đức, một hệ thống y tế thuộc hàng tốt nhất trên thế giới. Số bác sĩ trên vạn dân đạt 37, Số giường bệnh trên vạn dân đạt 83, chi cho y tế đạt 10,4% GDP. Mạng lưới y tế bao gồm bệnh viện, phòng khám bác sĩ gia đình và các trung tâm y tế chuyên khoa.

Bao phủ Bảo hiểm y tế toàn dân đạt 99% dân số, trong đó Bảo hiểm y tế công bao phủ 89%, Bảo hiểm Y tế tư nhân bao phủ 10%. Bảo hiểm Y tế công là bắt buộc đối với những người có thu nhập dưới 4.750 Euro/tháng (chiếm 75%) dân số, những người có thu nhập cao hơn có quyền lựa chọn Bảo hiểm y tế công hoặc Bảo hiểm Y tế tư nhân. Phạm vi quyền lợi được hưởng là khá rộng, các gói dịch vụ bảo hiểm y tế chi trả Bảo hiểm y tế công bao gồm dịch vụ dự phòng (tiêm chủng); điều trị ngoại trú, điều trị nội trú và dịch vụ chăm sóc tại nhà; dịch vụ bác sĩ gia đình; chăm sóc sức khỏe tâm thần; Nha khoa; Thuốc kê theo đơn; Trợ giúp y tế; Phục hồi chức năng và bồi hoàn do nghỉ ốm. Đồng chi trả được áp dụng cho các đối tượng người bệnh từ 18 tuổi trở lên hoặc dịch vụ nha khoa theo tỷ lệ tuỳ theo các nhóm dịch vụ khác nhau từ 5% trở lên. Tuy nhiên tổng chi cho y tế từ tiền túi của người dân không vượt quá 13,8% tổng chi y tế.

Cũng như nhiều nước phát triển khác, ngành y tế Đức đang phải đối mặt với 3 thách thức lớn: tỷ lệ sinh thấp, tuổi thọ tăng và sự già hóa xã hội. Tỷ lệ sinh chỉ đạt 1,3 con / phụ nữ độ tuổi sinh đẻ, tuổi thọ trung bình tăng cao đạt 77 tuổi nam và 82 tuổi nữ, nên Đức là nước có tỷ lệ người cao tuổi đứng thứ ba thế giới sau Nhật Bản và Italia. Hậu quả là giảm nguồn thu bảo hiểm, gia tăng chi cho y tế và thiếu hụt nguồn nhân lực y tế.

Bác sĩ Gia đình
Hệ thống chăm sóc y tế của Đức chỉ có hai tuyến: Bác sĩ gia đình và bệnh viện. Bác sĩ gia đình, bản chất là các phòng khám tư nhân cung cấp cả dịch vụ dự phòng như tiêm chủng, tư vấn sức khỏe phòng bệnh và khám chữa bệnh ban đầu. Người dân có quyền lựa chọn cho mình một Bác sĩ gia đình phù hợp. Khi ốm đau người dân có thể đến khám tại bác sĩ gia đình đã đăng ký hoặc đến thẳng bác sĩ chuyên khoa, nếu cần có thể cần làm các xét nghiệm tại chỗ hoặc lấy mẫu gửi xét nghiệm tại các labo chuyên sâu tập trung. Đơn thuốc được kê, người bệnh đến các hiệu thuốc để nhận thuốc BHYT. Tuỳ theo đối tượng có thể phải đồng chi trả một tỷ lệ nhất định cho các đối tượng từ 18 tuổi trở lên, thường là 5%, cao nhất là dịch vụ răng giả 50%. Nếu vượt quá yêu cầu chuyên môn bác sĩ gia đình hoặc bác sĩ chuyên khoa có thể giới thiệu người bệnh đến các BV chuyên khoa nhưng không chỉ rõ trong giấy giới thiệu là bệnh viện nào, người bệnh có quyền lựa chọn bệnh viện để chữa bệnh phù hợp với chuyên khoa đã được giới thiệu.

Đào tạo Y khoa và đạo tạo chuyên khoa
Thời gian đào tạo bác sĩ y khoa là 6 năm, trong đó có 1 năm làm “bác sĩ thực hành”, Trong năm đó họ phải đăng ký thực hành tại 1 bệnh viện 1 năm trong đó có ít nhất 4 tháng thực hành chung cho cả nội khoa và ngoại khoa và 4 tháng chuyên khoa định hướng. Sau đó họ phải trải qua một kỳ thi sát hạch do Hội đồng Giám khảo là các Giáo sư giảng dạy tại bệnh viện nơi bác sĩ đã thực hành, nếu đạt mới được cấp bằng Bác sĩ (doctor/ physican). Để hành nghề, họ phải nộp bằng này và đăng ký hành nghề tại Hiệp hội Y khoa Tiểu bang. Để mở phòng mạch riêng họ phải làm việc 6 năm trong bệnh viện hoặc phải tiếp tục học để trở thành bác sĩ chuyên khoa.

Thời gian đào tạo sau đại học để trở thành bác sĩ chuyên khoa có thể mất 4-6 năm tùy thuộc vào từng chuyên khoa. Để trở thành bác sĩ chuyên khoa, sau khi tốt nghiệp bác sĩ thực hành, bác sĩ chọn chuyên khoa để hướng nghiệp, tuỳ theo từng chuyên khoa mà có thời gian đào tạo liên thông khác nhau, dao động từ 4-6 năm. Phải đăng ký theo học và thực hành chuyên khoa đó tại bệnh viện hoặc phòng khám thích hợp. Trong thời gian thực hành này, mỗi bác sĩ phải hoàn thành 1 bảng chỉ tiêu thực hành (Log book) trong đó ghi cụ thể các hạng mục lý thuyết, các kỹ thuật, các giờ thực hành phải hoàn thành và có xác nhận của nơi thực hành. Kết thúc thời gian học và thực hành chuyên khoa tại cơ sở khám chữa bệnh, Hội đồng Y khoa do Hiệp hội Y khoa của Tiểu bang thành lập sẽ tổ chức kỳ thi sát hạch trình độ chuyên môn (Tỷ lệ phải thi lại của các hội đồng khoảng 5%). Kết quả đạt được sẽ được trình lên một bộ phận thuộc chính quyền Tiểu bang để cấp bằng hoặc cấp chứng chỉ.


Vai trò của Hiệp hội Bác sĩ là rất quan trọng trong việc thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng chung cho 17 Hiệp hội Bác sĩ thành viên thuộc các Tiểu bang khác nhau trên toàn nước Đức. Các Hiệp hội Bác sĩ Tiểu bang có nhiệm vụ; Quản lý hành nghề; Tổ chức các kỳ thi sát hạch chuyên môn cấp bằng bác sĩ chuyên khoa; Giám sát an toàn người bệnh; Trọng tài trong các vụ khiếu nại do sự cố y khoa; và ngoài ra còn có nhiệm vụ quản lý (thu, chi) lương hưu và bảo hiểm xã hội của các bác sĩ.Một cặp vợ chồng không giấu nổi niềm vui bên ngoài phòng thi, sau khi người vợ thi đỗ kỳ thi Bác sĩ chuyên khoa – Ảnh chụp tại Hiệp hội Bác sĩ Tiểu bang NorthRhein

Đào tạo liên tục (CME)
Y tế Đức có mô hình quản lý và khuyến khích đào tạo liên tục (CME) rất khoa học và chặt chẽ nhằm đảm bảo người hành nghề cung cấp dịch vụ an toàn cho người bệnh. Vai trò của các tạp chí chuyên ngành Đức là rất quan trọng trong việc thúc đẩy cập nhật kiến thức y khoa liên tục cho các bác sĩ. Có đến 120.000 Tờ báo chuyên môn đang hoạt động trên toàn nước Đức cung cấp ấn bản bằng giấy tới từng bác sĩ đã đăng ký. Tuỳ theo uy tín của từng tờ báo mà hệ số tính điểm đào tạo liên tục cho các bác sĩ khác nhau.


Trong 5 năm một bác sĩ phải đang hành nghề phải đạt được 250 điểm trong hệ thống đào tạo liên tục mới được gia hạn đăng ký hành nghề. Quy định của toàn liên bang đối với các bác sĩ, trong quá trình thực hành, ngoài việc tham gia các khoá tập huấn, các hội nghị, hội thảo chuyên môn, các bác sĩ Đức được khuyến khích đọc, tham gia biên tập hoặc viết bài đăng các tạp chí chuyên môn. Có cơ chế tính điểm cho từng hoạt động cụ thể là tiêu chuẩn bắt buộc. Ví dụ đọc và trả lời đầy đủ các câu hỏi của một bài báo chuyên môn đạt 3 điểm. Viết 1 bài báo chuyên môn, được thẩm định và đăng đạt 3 điểm (quá trình thẩm định rất chặt chẽ, có đến 75% số bài báo bị loại bỏ do không đạt yêu cầu chuyên môn), tham gia biên tập 1 bài báo chuyên môn đạt 1 điểm.Đoàn công tác thăm và làm việc tại Tạp chí Y khoa Đức

Mỗi chiều thứ 4 hàng tuần các phòng khám bác sỹ gia đình đóng cửa để tham gia các hoạt động đào tạo liên tục, bệnh nhân biết lịch này để chủ động hẹn buổi khác hoặc đến thẳng bệnh viện trong trường hợp cấp cứu.

Y tế từ xa 
Với những thách thức mới của ngành y tế, nước Đức phải tìm các giải pháp, trong đó có y tế từ xa để giải quyết những vấn đề này. Trong 10 năm gần đây, Bộ Y tế đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng nền tảng và các tiêu chuẩn để đảm bảo việc kết nối trao đổi thông tin giữa các cơ sở khám chữa bệnh, các phòng khám bác sĩ gia đình; Xây dựng cơ sở dữ liệu y khoa chung; Xây dựng các quy định đảm bảo an toàn người bệnh, bí mật riêng tư của người bệnh và quy định để Bảo hiểm y tế công có trách nhiệm chi trả dịch vụ.

Mặc dù có một hệ thống y tế phát triển, trình độ tương đối đồng đều trên cả nước, giao thông đi lại giữa các vùng thuận lợi nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đối với người dân Đức không gặp trở ngại. Tuy nhiên với những thách thức mới của ngành y tế như già hoá dân số, các bệnh mãn tính và thiếu hụt nhân lực chuyên khoa tại các bệnh viện ở vùng nông thôn, nhu cầu trao đổi, tư vấn giữa các bác sĩ gia đình và các bác sĩ chuyên khoa khác nhau, ngành y tế Đức đang triển khai nhiều dự án Y tế từ xa và bước đầu phát huy hiệu quả.

Các bác sĩ, các nhà nghiên cứu, và các công ty giải pháp đã thành lập Hiệp hội Telemedicine Đức và nhóm họp 2 lần trong năm nhằm giới thiệu các giải pháp kỹ thuật, báo cáo nghiên cứu khoa học, đề xuất các chính sách để hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của Telemedicine. Một số mô hình đã và đang triển khai hiệu quả:
1. Hệ thống tư vấn chẩn đoán hình ảnh từ xa: File kết quả chẩn đoán hình ảnh như CT-Scanner và MRI được chụp ở các phòng khám, trung tâm y tế hoặc các bệnh viện không có bác sĩ đọc kết quả, sau đó chuyển đến bệnh viện chuyên khoa hệ thống server xử lý và lưu trữ chẩn đoán hình ảnh (PACS) qua mạng để đọc và trả kết quả về theo đường Internet.
2. Chăm sóc người già: dân số Đức đang già hoá, rất nhiều người già có nhu cầu chăm sóc và theo dõi sức khoẻ tại các trại dưỡng lão. Một số cơ sở đã cung cấp các thiết bị như mornitoring, máy đo huyết áp, đường huyết có kết nối dịch Internet không dây để gửi kết quả đo đến cho bác sĩ tư vấn.
3. Hệ thống tư vấn khám chữa bệnh mãn tính: kết nối giữa các bệnh nhân, bác sĩ gia đình và bác sĩ chuyên khoa tiểu đường trong nước Đức và một số quốc gia trên thế giới, để tư vấn điều trị, theo dõi sau điều trị, đánh giá tình hình bệnh nhân. Hệ thống có sự hỗ trợ của phần mềm hỗ trợ chẩn đoán và điều trị tiểu đường và một số thiết bị chẩn đoán cho phép kết nối với mạng di động để truyền thẳng kết quả của người bệnh về hệ thống dữ liệu trung tâm để Bác sĩ chuyên khoa đánh giá và đưa ra tư vấn về tiên lượng bệnh, liều lượng thuốc và thay đổi chế độ luyện tập, hành vi lối sống.
4. Hệ thống tư vấn cấp cứu và điều trị đột quỵ: Do đặc điểm bệnh nhân cần phải chẩn đoán nhanh và xử trí nhanh tại chỗ ngay tuyến đầu tiên nên việc kết nối với các trung tâm y tế chuyên sâu, các bệnh viện chuyên khoa đột quỵ là rất cần thiết để tư vấn chẩn đoán thể bệnh, tiên lượng và phác đồ điều trị.


Kết thúc chuyến thăm và làm việc tại các cơ quan chuyên môn, Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên cùng đoàn công tác có buổi làm việc với Cơ quan hợp tác kỹ thuật Đức (GIZ) thuộc Bộ Hợp tác Phát triển Đức (BMZ). Tại đây Thứ trưởng đã đánh giá cao các dự án hỗ trợ kỹ thuật y tế của Chính phủ Đức thông qua GIZ trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân Việt Nam. Đánh giá cao một số mô hình thực hiện thành công ở Đức có thể triển khai áp dụng ở Việt Nam như Đào tạo liên tục thông qua các tạp chí chuyên ngành; Bác sĩ gia đình; Ứng dụng CNTT trong quản lý bệnh mãn tính; Xây dựng nền tảng CNTT thống nhất để kết nối thông tin giữa các bệnh viện. Đồng thời Thứ trưởng cũng đề nghị GIZ tiếp tục tăng cường hợp tác hỗ trợ kỹ thuật cho dự án vốn vay ưu đãi của Ngân hàng KFW triển khai thí điểm tại Bệnh viện Việt Đức và 6 bệnh viện vệ tinh thuộc 2 tỉnh Thanh Hoá, Yên Bái giai đoạn 2015 – 2017.Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuyên và đoàn công tác thăm và làm việc với GIZ ở trụ sở chính tại thành phố Bonn